Quản trị mạng tập trung trên nền WEB sử dụng công nghệ SNMP, CGI, CORBA Luận văn Thạc sĩ khoa học

  • Phát hành Trần Vĩnh Thanh
  • Đánh giá
  • Lượt tải 146
  • Sử dụng Miễn phí
  • Dung lượng 1,6 MB
  • Cập nhật 05/02/2013

Giới thiệu

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

ĐỀ TÀI:

Quản trị mạng tập trung trên nền WEB sử dụng công nghệ SNMP, CGI và CORBA cho hệ thống cung cấp dịch vụ Digital Subscriber Line (DSL) của Bưu điện Hà nội

CHƯƠNG I. TỔNG QUAN

I.1. Một số vấn đề cơ bản Giao thức quản trị mạng SNMP đã được đưa ra từ những năm 80 của thế kỷ trước nhưng đến nay vẫn được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực quản trị của các mạng TCP/IP. Mặc dù khi mới được đưa ra, SNMP chỉ được thiết kế như một giải pháp tạm thời để quản trị mạng TCP/IP nhưng do TCP/IP đã quá phổ biến và thành chuẩn giao tiếp de-factor của thế giới, SNMP cũng trở thành một chuẩn đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc thiết kế các phần mềm quản trị mạng của các thiết bị cung cấp dịch vụ.

Common Object Request Broker Architecture (CORBA) được OMG (Object Management Group) đưa ra như là một bộ khung kiến trúc chuẩn cho các ứng dụng hướng đối tượng trên mạng. CORBA đưa ra nhiều xác lập quan trọng như là trong suốt hóa tính địa phương của các đối tượng, gắn kết ngôn ngữ bậc cao cũng như đưa ra các phương thức gọi hàm động.

Như chúng ta đã biết, các trang web tĩnh sẽ không đủ khả năng cung cấp các thông tin cần được chất cập nhật thường xuyên như các ứng dụng dựa trên GUI (Graphical User Interface) của windows. Công nghệ s ử d ụng JavaApplet nhúng trong các trình duyệt đã khắc phục được điểm yếu này, và có khả năng cung cấp đầy đủ các thông tin cập nhật thời gian thực, kể cả thông tin dưới dạng đồ họa. Sử dụng Java trong các trình duyệt trên thực tế đã mở rộng khả năng của web lên nhiều lần, khiến cho web trở thành một môi trường vạn năng truyền tải thông tin không bị giới hạn về khoảng cách hay sự khác biệt về cấu hình hệ nền.

I.2. Lý do chọn đề tài Dịch vụ truy nhập Internet băng thông rộng sử dụng công nghệ ADSL lần đầu tiên được Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt nam (VNPT) thử nghiệm vào năm 2001 và được triển khai rộng rãi từ tháng 7 năm 2003 với tên thương hiệu là MegaVNN. Dịch vụ này từ khi ra đời đến nay đã có những bước phát triển nhảy vọt, đáp ứng được yêu cầu của người dùng về băng rộng, và dần dần thay thế dịch vụ truy cập Internet gián tiếp (Dial-up) qua đường dây điện thoại truyền thống.

Là một thành viên của VNPT, hiện nay trên địa bàn thành phố, Bưu điện TP Hà nội đang cung cấp 2 dịch vụ chính sử dụng công nghệ xDSL là dịch vụ truy nhập Internet băng rộng qua ADSL và dịch vụ dịch vụ mạng riêng ảo - MegaWan trên cả 2 loại đường truyền ADSL và SHDSL.

Để có thể cung cấp dịch vụ xDSL trên địa bàn thành phố Hà nội, hiện nay Bưu điện Hà nội đang quản lý một hạ tầng mạng lưới bao gồm một hệ thống phục vụ truy nhập hiện đại với các thiết bị DSLAM (Digital Subscriber Line Access Multiplexer) phân bổ ở khắp nơi trên địa bàn thành phố (hơn 140 điểm lắp đặt, gần 200 DSLAM …) của nhiều nhà cung cấp thiết bị nổi tiểng. Nhu cầu sử dụng xDSL trên địa bàn vẫn đang tiếp tục phát triển rất nhanh, số lượng các thiết bị DSLAM khai thác trên mạng liên tục được đầu tư mới nhằm đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, mạng lưới được mở rộng và độ phức tạp tăng lên. Đến nay, trên địa bàn Hà nội hiện có 8 chủng loại thiết bị của 4 nhà sản xuất khác nhau Siemens, Huawei, Tailyn, ZTE … với các công nghệ khác nhau như ATM DSLAM, IP DSLAM…

Hệ thống các DSLAM thuộc 4 hãng sản xuất này được quản trị, giám sát, khai thác mạng từ xa bởi 04 hệ thống quản lý NMS (Network Management System) tập trung do từng hãng sản xuất thiết bị cung cấp. Các hệ thống

NMS này đều là môi trường đóng, được thiết kế hướng tới đối tượng là các kỹ thuật viên vận hành mạng nên không cung cấp giao diện ra bên ngoài và không có mối liên hệ với nhau.

Với những hạn chế trên, cùng với sự phát triển của mạng lưới xDSL cả về số lượng và chủng loại thiết bị đã đặt ra một thách thức lớn đối với Bưu điện Hà nội trong việc vận hành, khai thác hệ thống; cũng như ảnh hưởng đến chất lượng các quy trình cung cấp dịch vụ của đơn vị, cụ thể như sau:

Không có chức năng để cho phép các hệ thống hỗ trợ bên ngoài giao tiếp với phần quản lý mạng

Do không có chức năng giao tiếp với các hệ thống hỗ trợ bên ngoài (ví dụ hệ thống quản lý khách hàng, hệ thống hỗ trợ dịch vụ.…), quá trình cung cấp dịch vụ (đóng mở cổng dịch vụ, khởi tạo dịch vụ, tháo hủy dịch vụ…) đều phải chuyển đến kỹ thuật viên khai thác mạng thực hiện bằng nhân công thông qua hệ thống NMS của mỗi hãng; không cho phép kết nối, thực hiện tự động hóa dây chuyền sản xuất, cũng như không thể xây dựng và phát triển thành một giải pháp tổng thể. Điều đó đã dẫn đến các hệ quả tất yếu sau:

- Số lượng thao tác hàng ngày tăng lên theo số lượng thuê bao và dịch vụ: Một ngày phải thực hiện nhiều yêu cầu đóng/mở cổng (khi có khách hàng mới hòa mạng, huỷ hợp đồng, nợ, trả nợ cước, vv…). Có những ngày, số lượng yêu cầu lên đến hơn 300; thời gian thực hiện trong từ 7:00 cho đến 21:00 với các quy định chặt chẽ về thời gian để hạn chế tối đa việc mất liên lạc của khách hàng; • Tạo một sức ép không nhỏ đối với quá trình vận hành và khai thác hệ thống do phải sử dụng nhiều loại phần mềm quản lý NMS đối với những công việc hàng ngày (kiểm tra thông số cổng, đóng, mở, reset cổng) . Thực tế là đã có lúc, cán bộ quản lý mạng phải ngồi trước 04 màn hình NMS và phải thao tác qua lại giữa 4 NMS này;

Công tác hỗ trợ và chăm sóc khách hàng gặp nhiều khó khăn:

Vì lý do an ninh, bảo mật nên phần quản lý mạng NMS nên kỹ thuật viên tại bộ phận hỗ trợ không có thông tin về trạng thái thiết bị để trả lời và hỗ trợ khách hàng mà phải hỏi thông tin từ bộ phận quản lý mạng NMS, ảnh hưởng không tốt đến chất lượng chăm sóc khách hàng, tốn nhiều nhân lực và mất nhiều thời gian chờ đợi..

Khó khăn trong việc tích hợp ứng dụng, nâng cao chất lượng, tùy biến của dịch vụ:

Các phần mềm quản lý thiết bị DLSAM được thiết kế cho các nhu cầu quản lý chung nên có nhiều điểm không phù hợp với nhu cầu sử dụng của Bưu điện Hà nội; không tích hợp với các CSDL hiện có của Bưu điện Hà nội, do vậy gặp nhiều khó khăn trong việc tích hợp ứng dụng, nâng cao chất lượng của dịch vụ.

Không có một giải pháp tổng thể cho toàn hệ thống:

Không có một hãng cung cấp thiết bị DSLAM nào có khả năng cung cấp một giải pháp tổng thể thỏa mãn các yêu cầu trên, do giải pháp thiết bị của mỗi hãng đều khác nhau, các hãng chỉ có thể có khả năng cung cấp giải pháp đối với thiết bị của họ khi có yêu cầu, mà không quan tâm đến thiết bị của các hãng sản xuất khác. Thực tế tại mạng do Bưu điện Hà nội quản lý đã tồn tại thiết bị của 4 hãng sản xuất, trong khi số hãng cung cấp thiết bị trên thị trường Việt nam ước tính lớn hơn 10 hãng.

Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của dịch vụ xDSL với xu hướng nâng cao chất lượng dịch vụ mà vẫn tiết kiệm nguồn nhân lực kỹ thuật cao đòi hỏi phải có một giải pháp giải quyết triệt để các vấn đề đã nêu trên.

Là một cán bộ kỹ thuật đang công tác tại một đơn vị cung cấp dịch vụ lớn với, tôi có cơ hội được tiếp xúc với những công nghệ tiên tiến của thế giới cũng như được va chạm nhiều với các vấn đề nảy sinh mà một nhà cung cấp dịch vụ phải đối mặt khi tiến hành cung cấp dịch vụ mạng trên quy mô rộng, đặc biệt là vấn đề quản trị mạng và những rắc rối nảy sinh trong thực tế khi phải phối hợp hoạt động giữa nhiều đơn vị, sử dụng nhiều loại thiết bị của nhiều nhà cung cấp khác nhau. Lựa chọn đề tài “Quản trị mạng tập trung trên nền WEB sử dụng công nghệ SNMP, CGI và CORBA cho hệ thống cung cấp dịch vụ Digital Subscriber Line (DSL) của Bưu điện Hà nội”, chúng tôi đang hướng tới mục tiêu tìm hiểu công nghệ quản trị mạng dựa trên WEB và xây dựng một giải pháp phần mềm ứng dụng trong thực tế phù hợp với mô hình khai thác, quản lý nơi tôi đang công tác nói riêng và có thể áp dụng cho các nhà nhà cung cấp dịch vụ khác.

Phần mềm cần phải đáp ứng các yêu cầu đã đặt ra với các khả năng:

- Cho phép tự động hóa các thao tác khai thác hàng ngày;

- Cung cấp giao tiếp cho phép các ứng dụng/dịch vụ hỗ trợ bên ngoài được giao tiếp với các thiết bị DSLAM. Có thể theo dõi trạng thái thiết bị từ xa, tuỳ theo phân quyền của các đơn vị tham gia khai thác phù hợp với quy trình quản lý dịch vụ của nhà cung cấp dịch vụ, tạo tiền để để tiến tới thực hiện các chức năng quản lý phức tạp hơn…

- Nhất thể hóa giao diện quản lý, giúp người sử dụng tránh việc phải thao tác với nhiều phần mềm quản lý khác nhau;

Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của việc tin học hóa, tự động hóa dần các thao tác đơn giản, giải phóng nguồn nhân lực có trình độ cao khỏi các thao tác đơn điệu, cũng như nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ, nhóm thực hiện đề tài sẽ cố gắng hoàn thành đề tài hướng tới khả năng áp dụng vào thực tế không chỉ đối với đơn vị mình, mà có thể áp dụng vào các đơn vị khác.

Download tài liệu để xem thêm chi tiết